Trang chủ » Thông tin » Chuyên gia mách nhỏ » Thông tin » Thuốc bôi ngoài da và tác dụng phụ toàn thân

Thuốc bôi ngoài da và tác dụng phụ toàn thân

Mùa hè đến cũng là mùa dễ phát triển các bệnh ngoài da. Trong điều trị các bệnh ngoài da, thuốc bôi có tác dụng tại chỗ vết tổn thương…

Mùa hè đến cũng là mùa dễ phát triển các bệnh ngoài da. Trong điều trị các bệnh ngoài da, thuốc bôi có tác dụng tại chỗ vết tổn thương, thường được dùng trong các trường hợp bệnh nhẹ, diện tích da nhỏ, mức độ tổn thương nông.

Có những dạng thuốc bôi nào?

Dạng dung dịch bao gồm hai thành phần là dung môi và thuốc tạo thành một dung dịch đồng nhất. Dung môi có thể là nước, cồn, ete, axeton hoặc glycerin. Thuốc là thành phần chủ đạo vì nó sẽ quyết định hoạt tính dược lý. Đa phần chúng là các thuốc sát khuẩn như xanh metylen, axit boric, tím gentian. Dạng dung dịch chủ yếu dùng với vết thương, loét da, chảy nước.

3-thuoc-boi-ngoai-da-thuong-duoc-su-dung-chua-nam-ben-1431447983807

Dạng bột là hỗn hợp khá đồng đều của tá dược và thuốc. Tá dược thường được sử dụng là các loại bột có khả năng thấm hút nước mạnh như bột gạo, bột than, bột talc (Mg2SiO3), bột kaolin (Al2SiO3), bột bismuth. Thuốc trong công thức của thuốc bột thường là các kháng sinh như clorocid. Thuốc bôi dạng này chủ yếu được dùng với các vết thương nhiễm khuẩn chảy nước nhiều và liên tục.

Thuốc mỡ là một dạng thuốc chủ yếu nhất trong họ hàng nhà thuốc bôi. Thành phần của nó có mỡ hoặc chất béo nên thuốc dễ ngấm vào sâu và tác dụng tốt. Trong công thức cấu tạo chúng gồm: chất béo, bột tạo hình và thuốc, trong đó bột tạo hình không quá 30% hàm lượng. Chất béo thông dụng là vaselin và lanoline. Thuốc được pha vào là các chất diệt khuẩn như kháng sinh, các axit hữu cơ, các chất làm bong vảy da như axit salicylic, các kháng sinh chống nấm, các corticoid, vitamin… Thuốc mỡ chỉ được dùng khi vết thương đã khô và đóng vảy.

Dạng hồ là dạng thuốc bôi, trong đó thành phần giống như thuốc mỡ, bao gồm chất béo, bột tạo hình và thuốc. Nhưng ở dạng này, thành phần bột tạo hình nhiều hơn, từ 30-50% tổng hàm lượng. Vì có nhiều bột hơn nên nó được sử dụng trong giai đoạn bán cấp, vết thương chuẩn bị se da.

Kem là dạng một dạng thuốc bôi mà thành phần của nó có đủ: mỡ, glycerin, nước và thuốc. Vì có thêm nước nên nó có vẻ nhão hơn các dạng khác và cũng vì thế mà nó mát hơn. Nó thường được dùng để chế tạo mỹ phẩm. Thuốc đôi khi cũng được bào chế dạng kem với chủ định là làm mát da.

Có một điều lưu ý ở đây, dù sử dụng dạng nào thì thuốc bôi không chỉ tác dụng tại chỗ bôi. Nó hoàn toàn có nguy cơ gây ra tác dụng toàn thân. Và đây chính là tác hại của thuốc bôi khi sử dụng bất cẩn.

Cẩn trọng với tác dụng phụ của thuốc

Thuốc bôi đa phần chỉ có tác dụng tại chỗ. Song điều này chỉ đúng khi diện tích da tổn thương nhỏ và nông. Khi diện tích da bị bệnh lớn hoặc tổn thương sâu thì thuốc có cơ hội ngấm qua da và gây nên những tác dụng toàn thân. Như vậy, diện tích da bôi thuốc rộng, nồng độ thuốc cao, sử dụng kéo dài là 3 yếu tố chủ đạo gây ra những tác phụ ngoại ý ở bên trong cơ thể. Thuốc sẽ có nhiều cơ hội đi vào máu, tích lũy trong các cơ quan và gây ra những tác dụng không mong muốn.

Ví dụ, salicylic là thuốc có tác dụng bạt sừng, bong vảy điều trị đặc hiệu những bệnh mà có dày sừng như vảy đầu ở trẻ dưới 1tuổi, vảy nến, mụn trứng cá do bài tiết quá nhiều. Tuy nhiên, nếu ngấm vào cơ thể gây ra tác hại trên hệ thần kinh gây nhức đầu, chóng mặt. Đặc biệt khi chúng ta sử dụng quá nhiều ở những đối tượng sẵn có những biểu hiện này. Nhiều trường hợp ngộ độc salicylic (do cơ thể hấp thu quá nhiều salicylic gây ra) với các dấu hiệu của hội chứng này bao gồm: da xanh, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn hô hấp, ù tai, buồn nôn, lú lẫn. Đã có trường hợp trẻ em bị tử vong do khi bôi thì uống nhầm salicylic gây ra phù thanh quản hẹp thanh quản cấp tính.

Tương tự aciclovir là một thuốc ức chế virut gây bệnh trên da như zona thần kinh. Nó có tác dụng khá tốt khi được dùng tại chỗ. Nhưng nó cũng có thể gây ra phản ứng toàn thân. Một trong các phản ứng toàn thân rõ rệt của loại thuốc này là dị ứng. Trên những bệnh nhân hen cơ địa, aciclovir có thể gây ra phát ban quanh rốn mặc dù chúng bôi ở trên mặt, xuất hiện các ban đỏ dạng sẩn, cục nổi hẳn lên trên mặt da. Tác hại này là do thuốc đã ngấm vào máu, đi từ vị trí bôi đến nơi bộ phận ở da và gây ra dị ứng da. Diện tích bôi thuốc càng rộng thì mức độ dị ứng càng nặng.

Một thuốc khác cũng cần cảnh báo là calcipotriol. Đây là một dẫn xuất của vitamin D được dùng trong trị liệu vẩy nến. Nó có tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào sừng (điều chủ yếu trong vẩy nến), làm tăng biệt hóa tế bào theo hướng bình thường. Nhưng một khi được ngấm vào trong máu thì chúng lại tác động mạnh lên hệ thần kinh trung ương và gây ra đau đầu.

Trên đây chỉ là những ví dụ rất nhỏ về tác hại của thuốc bôi khi dùng không cẩn trọng. Do đó, để dùng thuốc an toàn, hãy cẩn thận khi dùng thuốc bôi trên diện rộng và dài ngày, nhất là với người già và trẻ em. Tốt nhất, không nên bôi quá 3% diện tích cơ thể, tương ứng với diện tích một bàn tay và không nên bôi quá dài ngày, nên kết thúc sớm trước 2 tuần. Trong mọi trường hợp, chúng ta phải tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị.

Nhận xét sản phẩm: "Thuốc bôi ngoài da và tác dụng phụ toàn thân"